Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

CÂY THUỐC CHỮA VIÊM HỌNG ĐƠN GIẢN NHƯNG CŨNG RẤT HIỆU QUẢ

Cây rẻ quạt thường được trồng làm cảnh hoặc làm thuốc khắp nơi ở nước ta, có tên khoa học là Belamcanda sinensis (L) DC, là một loài cây bụi thân cỏ, có thân rễ dài, mọc bò sát đất, thân cao khoảng 0,5m.

Lá cây mọc thẳng xếp hai hàng trên một mặt phẳng giống như “cái quạt”, hoa có màu vàng cam có đốm đỏ. Quả nang có sọc ngang, hạt màu xanh đen, hình cầu, sáng bóng.

Theo đông y, vị thuốc “xạ can” là thân rễ của cây rẻ quạt thường đào vào mùa xuân hoặc mùa thu; cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô, khi dùng, ngâm nước gạo một hai ngày cho mềm; thái mỏng phơi hay sấy khô mà dùng dần. Xạ can là loại thuốc “thanh nhiệt giải độc” có vị đắng, tính hàn, hơi độc, vào hai kinh Túc quyết âm Can và Thủ thái âm Phế. Có tác dụng thanh hỏa, giải độc, tán huyết, long đờm, đau họng, ho đờm; dùng chữa yết hầu sưng đau, đờm nghẽn ở cổ họng. Ngày dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc. Hoặc giã củ tươi 10-20g với vài hạt muối, vắt lấy nước, ngậm nuốt dần; bã đắp ở ngoài. Xạ can hơi có độc nên người có tì vị hư hàn, trẻ em dưới 7 tuổi, phụ nữ có thai không được dùng. Dưới đây là một số bài thuốc của vị xạ can:

- Chữa viêm họng mạn tính, viêm họng hạt: Lấy một củ rẻ quạt to cỡ ngón chân cái rửa sạch, nướng chín (nếu không nướng chín sẽ gây bỏng họng), giã nhỏ với khoảng 10g muối, sau đó cho vào lọ nút kín. Hàng ngày lấy ra ngậm 3-5 lần; liên tục 3-5 ngày; có thể nhai nuốt cả bã và nước.

-Chữa viêm họng cấp: Xạ can (8-10g), sắc nước, chia thành nhiều lần uống trong ngày; khi uống có thể cho thêm đường hoặc mật ong vào cho dễ uống; đồng thời giã củ hoặc lá đáp vào chỗ đau trên cổ.

-Chữa viêm họng: Xạ can (4 g), kinh giới (16 g), kim ngân, huyền sâm, sinh địa mỗi vị (12 g); bạc hà, cỏ nhọ nồi, tang bạch bì mỗi vị (8 g). Sắc uống ngày một thang.

-Chữa viêm họng, ho đờm: Xạ can (6 g), sâm đại hành (15 g), mạch môn (15 g), cát cánh (6 g). Sắc uống ngày một thang.

-Chữa viêm amiđan cấp tính: Xạ can (6 g); kim ngân hoa, cỏ nhọ nồi, bồ công anh, mỗi vị (16 g), huyền sâm, sinh địa, sơn đậu căn mỗi vị (12) g; bạc hà, ngưu bàng tử mỗi vị (8 g); cát cánh (6 g). Sắc uống ngày một thang.

-Chữa các triệu chứng báng, bụng to nước óc ách, da đen xạm: Xạ can tươi, giã nhỏ, vắt lấy nước uống, hễ thấy lợi tiểu tiện thì thôi.

-Trị ho hen, ho do lạnh: Xạ can (10 g), bán hạ (10 g), tử uyển (10 g), khoản đông hoa (10 g), đại táo (10 g), sinh khương (10 g), ma hoàng (7 g), ngũ vị tử (3 g), tế tân (3 g). Sắc nước uống.

Cây bạc hà :


Cây húng cay còn có tên là cây bạc hà, có tác dụng tốt trong việc cải thiện chứng viêm họng, tưa lưỡi, cảm nắng, mề đay...
                                                   

Theo Đông y, bạc hà vị cay, tính mát, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, hóa đờm, tiêu thức ăn, giải cảm nắng, đau bụng, đầy bụng, tiêu viêm…

Trị chứng viêm họng, khản tiếng: Lấy một nắm húng cay tươi rửa sạch, giã nát cùng vài hạt muối, cho thêm một ít nước sôi để nguội, hòa đều, vắt lấy nước. Ngậm nước thuốc trên trong miệng khoảng 10- 15 phút rồi nuốt dần.

Trị chứng tưa lưỡi ở trẻ: Lấy một lá húng cay tươi rửa sạch với nước sôi để nguội rồi bọc vào ngón tay chà nhẹ lên lớp tưa lưỡi của trẻ, làm vài lần sẽ khỏi.

Bị rết hoặc ong đốt: Lấy lá húng cay tươi rửa sạch, nhai nhuyễn đắp vào chỗ bị cắn.

Trị chứng đi lỵ ra máu: Lấy một nắm lá rau húng cay tươi rửa sạch, sắc với hai bát nước còn gần một bát, chia uống 2 - 3 lần trong ngày.

Trị chứng ho vướng đờm trong cổ: Lấy 200 gr húng cay khô, tán thành bột, luyện với mật mía thành viên như hạt nhãn. Ngậm hết 15 - 20 viên là khỏi.

Trị chứng cảm nắng, nhức đầu: Lấy khoảng 15 - 20 gr húng cay tươi làm nước xông. Trước khi xông, chắt một chén nhỏ uống. Xông xong lau mồ hôi, nghỉ ngơi sẽ khỏi.

Trị chứng mày đay, dị ứng sơn ta: Nếu bị mày đay mẩn ngứa thì lấy lá húng cay tươi rửa sạch bằng nước muối, vò nát xát lên chỗ mày đay. Nếu bị dị ứng sơn ta ngứa ngáy, lở loét thì lấy lá húng cay đã phơi khô hoặc sao khô nấu với nước để rửa vết lở, rất mau lành.

Hoa đu đủ đực :

Cây đu đủ đực, là cây có màu hơi xanh lục. Lá mọc so le, có cuống dài, mỗi phiến lá chia làm 8 - 9 thuỳ sâu, mỗi thuỳ lại bị khía thêm nữa như bị xẻ rách. Cụm hoa đực phân nhánh nhiều, có cuống, rất dài.

Bộ phận dùng chế biến làm thuốc chủ yếu là hoa. Theo kinh nghiệm dân gian, hoa đu đủ đực là một vị thuốc được dùng phổ biến để chữa ho, nhất là ở trẻ em. Khi dùng hoa đu đủ đực để chữa bệnh nên chọn hoa mới nở ngay tại cây, thường dùng tươi.

Một số bài thuốc chữa bệnh từ hoa đu đủ đực:
Trị ho cho trẻ: 10-20g hoa đu đủ đực (chọn hoa mới nở) trộn với đường trắng hoặc mật ong, hấp cơm trong 15-20 phút, sau đó lấy ra đem nghiền nát để dùng. Cho trẻ uống làm 2-3 lần trong ngày với nước đun sôi để nguội. Uống trong 3 ngày.

Chữa ho kèm theo mất tiếng: Hoa đu đủ đực 15g, lá hẹ 15g, hạt chanh 10g. Tất cả để tươi, nghiền nát rồi hòa với 20ml, thêm ít mật ong hoặc đường kính trộn đều, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng trong 3-5 ngày.

Chữa ho do viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g, củ mạch môn, xạ can, lá húng chanh mỗi vị 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần.













0 nhận xét:

Đăng nhận xét